Voọc là một loài khỉ đuôi dài sống trong rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Có tổng cộng 10 loài voọc ở Việt Nam, được phân bố ở các vùng rừng núi từ Bắc vào Nam.
Voọc có chiều dài cơ thể trung bình từ 40 đến 80 cm và nặng từ 4 đến 8 kg. Chúng có bộ lông dày, mềm mại và có màu sắc đa dạng từ màu nâu đến màu đen. Voọc có các chi dài, thường được sử dụng để bám và di chuyển trên các cây và cành.
Voọc là động vật ăn lá, chúng có hệ thống lên men lớn và hệ vi sinh đường ruột để có thể phù hợp với khẩu phần ăn hầu như là chất xơ giống các loài động vật móng guốc. Chúng có thể di chuyển nhanh và linh hoạt trong rừng nhờ đôi chi mạnh mẽ của mình.
Voọc là một trong những loài động vật ở Việt Nam được đánh giá là có nguy cơ tuyệt chủng cao, chủ yếu do mất môi trường sống và săn bắn. Nhiều vườn quốc gia và khu bảo tồn đang cố gắng bảo vệ và tăng cường bảo tồn cho loài voọc này.
Sự tương tác giữa các cá thể trong đàn voọc là rất phức tạp và đa dạng. Chúng có thể giao tiếp qua các âm thanh, cử chỉ, hành động và ánh mắt. Voọc sống theo hình thức đa động và tổ chức xã hội của chúng thường bao gồm một đôi tình nhân và các con của họ.
Trong văn hóa dân gian Việt Nam, voọc thường được coi là linh vật mang lại may mắn và tài lộc cho con người. Chúng cũng được coi là biểu tượng của sự hoà hợp và sự kết nối với tự nhiên.
Danh sách 11 loài Voọc ở Việt Nam và hiện trạng bảo tồn theo IUCN Red List 2022
STT | Tên loài | Hiện trạng | Đặc hữu Việt nam |
1 | Voọc chà vá chân xám Pygathrix cinerea | CR | ✔ |
2 | Voọc mũi hếch Rhinopithecus avunculus | CR | ✔ |
3 | Voọc cát bà Trachypithecus poliocephalus | CR | ✔ |
4 | Voọc mông trắng Trachypithecus delacouri | CR | ✔ |
5 | Voọc chà vá chân nâu Pygathrix nemaeus | EN | ✘ |
6 | Voọc chà vá chân đen Pygathrix nigripes | EN | ✘ |
7 | Voọc bạc đông dương Trachypithecus germaini | EN | ✘ |
8 | Voọc bạc annam Trachypithecus margarita | EN | ✘ |
9 | Voọc xám Trachypithecus crepusculus | EN | ✘ |
10 | Voọc đen má trắng Trachypithecus francoisi | EN | ✘ |
11 | Voọc hà tĩnh Trachypithecus hatinhensis | EN | ✘ |
Chà vá chân xám/Grey-shanked Douc (Pygathrix cinerea)
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Primate |
Họ (familia) | Cercopithecidae |
Chi (genus) | Pygathrix |
Loài (species) | P. cinerea |

Chà vá chân xám chỉ mới được phát hiện và công bố vào năm 1997 sau khi tịch thu từ những người buôn bán động vật trái phép năm 1995. Chúng là loài hiếm nhất trong ba loài voọc và cũng bị hạn chế sinh cảnh sống nhất. Nằm trong danh sách 25 loài linh trưởng nguy cấp nhất thế giới (Le Van Dung).
Một số khu vực có thể xem và quan sát

Nó là loài đặc hữu của Việt Nam từ Quảng Nam đến Bình Định.
Chúng được tìm thấy trong rừng nhiệt đới trên đồi núi ở độ cao từ 200 – 1500 mét, có khả năng thích ứng tương đối khi rừng bị tác động, nhưng nạn săn bắn làm cho các quần thể của loài này ở Việt Nam bị đe dọa ở mức nguy cấp.
Những quần thể lớn đang sinh sống ở Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh, các khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh, xã Dak Pring và Kon Chư Răng.
Hiện nay, Chà vá chân xám bị suy giảm nghiêm trọng theo số liệu nghiên cứu năm 2016 còn dưới 1.500 cá thể loài được phát hiện trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Mất đi nơi ở do quá trình phá rừng của con người vào những mục đích như tái định cư, chuyển vùng canh tác nương rẫy và việc săn bắt của con người là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự đe dọa nghiêm trọng đối với loài này.

Đặc điểm
Chà vá chân xám có thân lông xám với vết lông trắng ở mông. Lông vai và tay màu đen. Lông trên đầu màu xám nhưng có một vành đen phía trên trán. Chúng có vành râu quai nón màu trắng trong khi phía cổ thì lông màu đà, hung đỏ. Mắt chúng hơi xếch. Tay chà vá dài hơn chân. Đuôi dài, sắc lông trắng.
Con đực hơi lớn hơn con cái và nặng trung bình khoảng 10.9 kg. Con cái nặng khoảng 8.2 kg. Chà vá chân xám, như tên đặt cho chúng, có cặp chân xám. Hai cánh tay cũng xám. Chúng có họ rất gần với chà vá chân đỏ trong khi là họ hàng xa với Chà vá chân đen.
Chà vá chân xám hoạt động vào ban ngày và chủ yếu sống trên cây. Chúng di chuyển qua các cành cây bằng cách nhảy và chuyền cành. Trước đây, người ta thường tìm thấy chúng trong nhóm lớn gồm 50 cá thể nhưng số lượng này giờ đã giảm đáng kể xuống từ 4 đến 15 con. Con đực thường là giới thống trị và có vai trò lãnh đạo (theo Covert và cộng sự 2008).
Chà vá chân xám giao tiếp với nhau bằng cách động chạm, qua hình ảnh và nghe tiếng. Gầm rú thường là dấu hiệu cho thấy sự tức giận. Nó có thể là dấu hiệu hăm dọa một cá thể nào đó. Tiếng líu lo nhẹ nhàng thường là dấu hiệu của sự vâng phục.
Chà vá chân xám thường chải chuốt lông để loại bỏ ký sinh trùng và củng cố mối liên kết giữa các thành viên trong đàn. Hoạt động này thường được thực hiện trước khi nghỉ tối. Các thành viên cũng có thể cho thấy thái độ hung hăng bằng cách đánh nhau, đập, kéo và vồ lẫn nhau (theo Covert và cộng sự 2008).
Giao tiếp bằng hình ảnh bao gồm các biểu hiện khuôn mặt và những tư thế khác nhau. Biểu hiện khuôn mặt có thể là nhăn nhó, cho thấy thái độ tuân phục, thái độ đùa giỡn khi chơi cùng các thành viên khác và nhìn chằm chằm thể hiện sự tò mò hay tức giận. Biểu hiện khuôn mặt cũng được thể hiện rõ trong giai đoạn chọn bạn tình. Con đực sẽ nhìn về phía con cái để cho thấy rằng chúng sẵn sàng giao phối.
Thức ăn của chúng gần như là lá cây, nhưng thỉnh thoảng cũng ăn thêm hạt, trái cây và hoa. Chúng thích lá non và hoa quả.
Voọc mũi hếch/Tonkin snub-nosed Monkey (Rhinopithecus avunculus)
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Primate |
Họ (familia) | Cercopithecidae |
Chi (genus) | Rhinopithecus |
Loài (species) | R. avunculus |

Voọc mũi hếch Rhinopithecus avunculus là đại diện ghi nhận ở Việt Nam. Bốn loài khác cùng chi được tìm thấy ở Trung Quốc và Miến Điện. Loài này nằm trong danh sách 25 loài linh trưởng nguy cấp nhất thế giới.
Một số khu vực có thể xem và quan sát

Trước đây loài này phân bố rộng rãi ở phía đông sông Hồng nhưng nạn săn bắn và phá rừng đã khiến phạm vi hoạt động và số lượng của chúng sụt giảm nghiêm trọng. Đến nay ghi nhận chỉ ở hai địa điểm trong tỉnh Hà Giang có hơn 250 cá thể sống sót trong rừng nguyên sinh, trên núi đá vôi dốc đứng.
Hà Giang có thể là nơi sinh sống của những quần thể Voọc mũi hếch cuối cùng trên thế giới (Nguyen Van Truong)
Hiện nay, chỉ còn khoảng 250 cá thể Voọc mũi hếch còn lại trên toàn Việt Nam. Là một loài đặc hữu của Việt Nam nên cũng có thể nói 250 cá thể này là số cá thể cuối cùng của loài trên toàn thế giới. Tất cả những gì có thể ngăn chặn sự tuyệt chủng của loài này là những nỗ lực không ngừng nhằm bảo tồn hai quần thể lớn nhất còn lại.
Các quần thể nhỏ hơn có thể sinh sống ở nơi khác nhưng không bảo đảm có thể tồn tại lâu dài. Điều đáng buồn hơn là loài này ít có khả năng còn những quần thể khác ngoài tự nhiên có thể được phát hiện.

Đặc điểm
Voọc mũi hếch mặt nhiều màu sắc, mũi hếch, miệng có đôi môi dày và bộ lông rậm rạp (Le Khac Quyet). Lông ở phần lưng màu nâu đen nhưng phía ngực và bụng lại có màu trắng kem cùng một mảng lông màu cam xung quanh cổ, đặc biệt là ở con đực.
Chúng không có mào lông trên đỉnh đầu. Chiều dài cơ thể của loài từ 51 đến 65 cm (20 đến 26 in) cộng thêm chiều dài đuôi từ 66 đến 92 cm (26 đến 36 in). Con cái và con đực có cân nặng trung bình lần lượt khoảng 8 kg (18 lb) và 14 kg (31 lb). Những cá thể đang trưởng thành có phần lông màu xám thay cho màu đen và cũng không có vùng lông cam quanh cổ.
Voọc mũi hếch là loài ăn đêm với thức ăn bao gồm đa dạng các loại lá, quả, hoa và hạt. Chúng sinh sống hoàn toàn trên cây rất ít khi xuống đất, di chuyển thành những đàn nhỏ. Một đàn gồm một con đực và 10 – 15 con cái, rất hiếm khi hơn 20 con cái trong một đàn (Le Khac Quyet). Chúng dành khoảng 30% thời gian trong ngày để nghỉ ngơi, thời gian còn lại chúng dành cho việc quan sát và kiếm ăn.
Voọc cát bà/Cat ba langur (Trachypithecus poliocephalus)
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Primate |
Họ (familia) | Cercopithecidae |
Chi (genus) | Trachypithecus |
Loài (species) | T. poliocephalus |

Voọc cát bà rất hiếm trên thế giới và chỉ tồn tại ở quần đảo Cát Bà trong vịnh Hạ Long. Trước đây được coi là phổ biến nhưng loài này đã chết dần và toàn cầu hiện nay chỉ còn khoảng 70 con, chúng cũng được liệt vào danh sách 25 loài linh trưởng có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất thế giới.
Một số khu vực có thể xem và quan sát

Khi còn rừng phủ đầy, đảo Cát Bà có thể từng là nơi sinh sống cho quần thể Voọc lên tới 2.700 con. Trong những năm 1960, loài này bắt đầu bị tiêu diệt dần vì nạn săn bắt để lấy thịt và làm thuốc dân gian. Người ta thường dùng cách bẫy cả một đàn voọc khi chúng ngủ đêm trong hang động.
Chúng sống trong rừng và những bụi cây bao phủ các núi đá vôi, một con voọc đực dẫn cả đàn, dừng lại trên điểm cao để kiểm tra toàn bộ khu vực trước khi đàn di chuyển tiếp.
Vịnh Hạ Long được UNESCO bình chọn là Di sản Thế giới không giúp gì để bảo tồn loài voọc này mà ngược lại, nó dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của thị trấn Cát Bà. Sự xáo trộn mất kiểm soát từ du lịch càng làm tăng thêm sự đe dọa cho loài này (Nguyen Van Truong).

Đặc điểm
Báo cáo ghi nhận nhiều đàn đã di chuyển giữa các đảo khi thủy triều thấp. Việc các đàn nhỏ bị cô lập là mối đe dọa sự tồn tại lâu dài của chúng. Con đầu đàn gồm một con đực trưởng thành và vài con cái. Việc thụ thai xảy ra hằng năm. Khi một con đực khác nắm quyền thống lĩnh đàn chúng sẽ giết các con sơ sinh để con cái sớm động đực.
Voọc mông trắng/Delacour’s Langur (Trachypithecus delacouri)
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Primate |
Họ (familia) | Cercopithecidae |
Chi (genus) | Rhinopithecus |
Loài (species) | T. delacouri |

Voọc mông trắng có vùng phân bố hẹp, chỉ ở khu vực miền Bắc Việt Nam. Ước tính còn khoảng 200 cá thể, trong đó 100 cá thể tập trung ở một khu vực, các khu vực khác bị chia cắt và có số lượng quần thể nhỏ. Đây là một thành viên khác của danh lục 25 loài linh trưởng nguy cấp nhất thế giới.
Một số khu vực có thể xem và quan sát

Sống trong rừng thường xanh và bụi rậm. Phân bố ở độ cao từ 500 – 1.000 m trên núi đá vôi, nơi nguồn nước hạn chế sự phân bố của chúng. Quần thể lớn nhất được ghi nhận gồm 100 cá thể tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Vân Long, tỉnh Ninh Bình.

Đặc điểm
Trọng lượng cơ thể 8,1 – 9 kg; chiều dài đầu và thân 0,46 – 0,665 m. Trên đỉnh đầu có mào lông màu đen, có vệt lông trắng khá rộng hai bên má kéo dài lên phía trên vành tai. Chân có bộ lông màu đen. Vùng mông có lông màu trắng kéo dài tới tận gốc đuôi và đùi; chân tay dài. Đuôi dài hơn thân, lông đuôi màu đen. Thức ăn chủ yếu là chồi cây, lá và quả cây.
Các quần thể còn lại hầu hết là nhỏ, ít hơn 20 con. Một ngoại lệ đáng chú ý là một quần thể gồm 30 đến 40 con vẫn còn sinh sống ở Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hoá và một quần thể khác, gần đây mới được phát hiện tại một địa điểm chưa công bố.
Một đàn gồm một con đực, vài con cái trưởng thành và bầy con của chúng.
Voọc chà vá chân nâu/Red-shanked Douc (Pygathrix nemaeus)
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Primate |
Họ (familia) | Cercopithecidae |
Chi (genus) | Pygathrix |
Loài (species) | P. nemaeus |

Là loài nhiều màu sắc nhất trong các loài voọc, Chà vá chân nâu có thể gọi là loài linh trưởng đẹp nhất thế giới. Được tìm thấy chủ yếu ở Lào và Việt Nam, nhưng đôi khi cũng xuất hiện tại Campuchia, loài này có địa bàn sinh sống rộng lớn. Tuy nhiên, có khả năng chúng sẽ trở thành loài có nguy cơ tuyệt chủng cao nếu tình trạng bảo tồn không được cải thiện.
Một số khu vực có thể xem và quan sát

Chúng được tìm thấy ở độ cao so với mặt nước biển tới 1.600 m, sinh sống ở rừng thường xanh, núi đá vôi và các khu rừng rụng lá. Mặc dù chúng có thể dễ dàng quan sát tại Khu Bảo tồn Thiên Nhiên Sơn Trà nhưng quần thể lớn nhất hiện có ở Việt Nam được tìm thấy tại Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng.

Đặc điểm
Lá cây là thức ăn chủ yếu, chúng chiếm khoảng 80%. Ở Việt Nam, 125 loài thực vật đã được tìm thấy trong khẩu phần ăn của loài này. Các đàn duy trì một đực với nhiều con cái hoặc nhiều con đực với nhiều con cái hoặc nhiều con cái, mỗi đàn thường có từ 5 đến 10 cá thể. Chà vá chân nâu vẫn hoạt động mạnh dưới trời mưa miễn sao chúng không bị ướt nhiều (Hoang Ha).
Nhảy chuyền cành là hình thức vận động thường thấy ở loài này. Chúng vừa di chuyển vừa gây ra tiếng động và di chuyển trên các tán cây (Jonathan C. Eames).
Voọc chà vá chân nâu là loài có màu sắc rực rỡ nhất trong các loài linh trưởng. Chúng được biết mệnh danh là “nữ hoàng linh trưởng” cũng bởi vẻ ngoài xinh đẹp và độc đáo. Từ đầu gối đến mắt cá chân của Voọc chà vá chân nâu giống như “đôi tất dài màu nâu đỏ”, cẳng tay trước của chúng như được phủ một lớp găng tay trắng. Bàn tay và đôi chân lại có màu đen.
Voọc chà vá chân nâu có vành râu quai nón màu trắng và thường của con đực sẽ rậm rạp hơn. Đuôi dài màu trắng và có cụm lông trắng ở phía cuối. Phần bụng và lưng có màu xám. Bộ lông trên cơ thể là tổng hợp hài hòa của 5 màu đen, xám, trắng, nâu đỏ, cam nên còn được gọi là voọc ngũ sắc.
Cá thể trưởng thành có trọng lượng cơ thể trung bình ở con đực và con cái tương ứng 11 kg và 8,44 kg. Kích thước thân trung bình khoảng 61 cm ở con đực và 55 cm ở con cái. Đuôi thuôn và dài 55 – 76 cm. Ở con đực có hai túm lông trắng ở hai góc phía trên gốc đuôi hình tam giác.
Voọc, giống như các loài khỉ khác, thích sống bầy đàn. Chúng sống trong nhóm từ 4 đến 15 con nhưng đã từng ghi lại được nhóm lên tới 50 con. Một nhóm thường có một hoặc vài con đực và trung bình sẽ có hai con cái nếu có một con đực. Cả con cái và con đực đều biết vị trí của mình trong đàn và con đực thường có vị trí cao hơn con cái. Cả con đực và con cái cuối cùng rồi sẽ rời khỏi đàn nơi chúng được sinh ra.
Giống các loài khác thuộc họ Khỉ cựu thế giới, đuôi của chúng không dùng để cầm nắm. Đuôi chỉ được sử dụng cho một mục đích duy nhất là cân bằng. Chúng dùng tay và chân để di chuyển trong rừng. Một khi đã bắt đầu di chuyển cả nhóm sẽ được dẫn dắt bởi con đực đầu đàn, với những con đực trẻ ở phía sau, con cái và con non an toàn ở giữa.
Loài voọc này sống trên cao, chúng di chuyển ở trên các tán rừng. Chúng rất nhanh nhẹn và thường có thể nhảy tới 6 mét (20 feet), với cánh tay dang rộng qua đầu, chúng đẩy chi dưới về phía trước và tiếp đất bằng 2 chân.
Bình thường, chà vá chân nâu sẽ di chuyển một cách ồn ào từ cành này sang cành khác qua khu rừng, đi qua các tán cây, nhảy nhót trên các cành và nhún nhảy bằng 2 chân cùng lúc, thể hiện khả năng giữ cân bằng tuyệt vời của mình. Nhưng khi có biến, bởi kẻ săn mồi hay những mối nguy hiểm khác, chúng có thể chạy trốn một cách yên lặng qua những cành cây, ra xa khỏi mối nguy hiểm.
Nếu chúng giật mình, chúng có thể kêu lớn, nháo nhác quanh các cành cây. Nhưng ngược lại với những lần di chuyển ồn ã, chà vá dành phần lớn thời gian để ăn trong yên lặng, tiêu hóa đống thức ăn, liu diu ngủ và chải lông cho nhau.
Loài khỉ này giao tiếp thông qua biểu cảm khuôn mặt. Nó như một màn biểu diễn khuôn mặt với cái miệng há rộng, răng nhe ra và cằm hướng về phía trước. Thỉnh thoảng, chúng nhắm mắt, quờ quạng nhau mà không để tâm tới mối nguy hiểm khi ở trên các cành cao.
Cái nhìn chằm chằm thể hiện sự đe dọa. Mặt nhăn nhó, miệng mở rộng và răng nhe ra cho thấy thái độ tuân phục sau khi bị nhìn chằm chằm. Biểu hiện này cũng thường thấy khi chúng bắt đầu chải lông cho nhau và chơi đùa. Chà vá chân nâu gầm gừ ở âm vực thấp, thể hiện sự đe dọa và kêu ré lên khi phải chịu đau.
Về tập tính giao phối và sinh sản, hiện chưa có đầy đủ thông tin mô tả quá trình này ngoài tự nhiên. Các quan sát và nghiên cứu trong môi trường nuôi nhốt ghi nhận: trước khi giao phối, cả con đực và con cái đều ra dấu hiệu bằng cách giơ cằm ra, lông mày nhếch cao và đầu cúi xuống. Con cái sẽ di chuyển trước, cắm mặt xuống cành cây, mắt nhìn vào con đực đã chọn. Con đực sẽ quay lại nhìn thẳng và có thể quay đi tìm nơi mà nó cho là phù hợp để giao phối.
Giai đoạn giao phối diễn ra từ tháng 8 đến tháng 12. Giai đoạn mang thai kéo dài trong khoảng từ 165 đến 190 ngày, con cái sẽ sinh một con non vừa đúng trước mùa quả chín. Sinh đôi thường rất hiếm. Con non khi chào đời mắt đã mở to và bám vào mẹ một cách bản năng.
Voọc con mới sinh có lông vàng cam, mặt màu đen, từ 8 – 24 tháng tuổi màu lông và màu mặt mới chuyển dần sang màu sắc của con trưởng thành. Trong môi trường nuôi nhốt, những thành viên khác trong nhóm cũng chăm sóc con non và những con cái khác có thể còn cho nó bú. Một nghiên cứu đã ghi nhận: con non được nhận nuôi sẽ do hai con cái và một con đực trong đàn chăm sóc. Con cái có thể bắt đầu giao phối khi đủ 4 tuổi trong khi con đực phải mất từ 4-5 năm. Vòng đời của chúng dài khoảng 25 năm.
Thức ăn của chúng chủ yếu bao gồm lá cây nhiều chất xơ. Thuộc phân loài Colobinae hay loài khỉ ăn lá, chúng có dạ dày to chia làm các túi chứa vi sinh giúp tách cellulose trong lá cây qua quá trình lên men, điều này khiến cho bụng của loài chà vá luôn phồng lên. Chúng cũng hay ợ do khí thải ra từ quá trình lên men này. Chà vá chân nâu thích ăn những lá non, nhỏ và mềm nhưng cũng thích hoa quả như quả sung, nụ, cuống lá, hoa và hạt.
Chúng lấy được đủ chất lỏng và protein chúng cần từ thức ăn mà không cần phải xuống tận mặt đất để uống nước. Loài khỉ này ăn tới 50 loại thực vật khác nhau nhưng không ăn thịt loài động vật nào. Thói quen ăn uống bừa bãi và hỗn tạp của chúng đã làm rơi nhiều thức ăn xuống mặt đất: lá khô, quả chưa chín hoặc hoa quả quá chín.
Chúng ăn một cách hòa bình bên cạnh nhau, chia sẻ thức ăn mà không tranh giành. Thường thì chúng chia sẻ một tán lá, chúng dùng tay tách tán lá đó ra chia cho nhau, đây là một hành động hào hiệp mà hiếm loài Khỉ cựu thế giới nào có.
Voọv chà vá chân đen/Black-shanked Douc (Pygathrix nigripes)
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Primate |
Họ (familia) | Cercopithecidae |
Chi (genus) | Pygathrix |
Loài (species) | P. nigripes |

Chà vá chân đen là một trong những loài voọc được tìm thấy ở khu vực sông Mekong, phía nam Việt Nam và đông Campuchia. Thức ăn gần như toàn lá. Dạ dày giống bò với 4 ngăn cho phép chúng tiêu hoá cellulose trong lá.
Một số khu vực có thể xem và quan sát

Chúng được tìm thấy trong rừng bán nhiệt đới, từ độ cao ngang mực nước biển lên đến 800 m. Ở Việt Nam, địa bàn của chúng gồm các khu rừng ven biển thuộc Vườn Quốc gia Núi Chúa, tỉnh Ninh Thuận, rừng khộp trong Vườn Quốc gia Cát Tiên và rừng nhiệt đới trên núi ở Vườn Quốc gia Chư Yang Sin, tỉnh Đắk Lắk

Đặc điểm
Có thân lông xám với vết lông trắng ở mông. Lông vai và tay màu đen. Lông trên đầu màu xám nhưng có một vành đen phía trên trán. Chúng có vành râu quai nón màu trắng trong khi phía cổ thì lông màu đà, hung đỏ. Mắt chúng hơi xếch. Tay chà vá dài hơn chân. Đuôi dài, sắc lông trắng.
Khác biệt giữa ba loại chà vá là lông từ mông trở xuống. Chà vá chân đen, như tên đặt cho chúng, có cặp chân đen. Hai cánh tay cũng đen.
Thức ăn của chúng gần như toàn lá cây, thỉnh thoảng thêm trái cây và hoa.
Không như những loài khỉ khác, khi có biến chúng trở thành bất động nên dễ bị săn bắt.
Chúng sống trên cây. Trong một ngày, hai phần ba thời gian chúng nghỉ ngơi, thời gian còn lại để ăn và quan sát (Nguyen Van Truong). Khẩu phần ăn của chúng là các loại lá cây, đôi khi chúng ăn quả và các loại hạt, tỷ lệ phần trăm các loại này khác nhau phụ thuộc vào kiểu rừng (Le Khac Quyet). Tại Vườn Quốc gia Núi Chúa quần thể này có khoảng 500 – 700 cá thể (Jonathan C. Eames).
Voọc bạc đông dương/Germain’s Langur (Trachypithecus germaini)
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Primate |
Họ (familia) | Cercopithecidae |
Chi (genus) | Trachypithecus |
Loài (species) | T. germaini |

Lãnh thổ của loài có nguy cơ tuyệt chủng này kéo dài từ phía Nam Miến Điện qua miền Nam Thái Lan, Nam Lào, Campuchia tới miền Nam Việt Nam, chỉ ở tỉnh Kiên Giang. Chưa rõ toàn cầu hiện còn bao nhiêu con nhưng số lượng đang giảm dần.
Một số khu vực có thể xem và quan sát

Chúng xuất hiện ở rừng nhiệt đới, bán nhiệt đới, cả ở ven sông và rừng rụng lá hỗn hợp. Môi trường sống của chúng giống như của loài Voọc bạc an nam. Tuy nhiên, loài này sống xa hơn về phía Nam và chưa có ghi nhận cho thấy hai loài này sống chung trong một sinh cảnh.
Chúng xuất hiện ở Kiên Giang, Hòn Chông, Phú Quốc.

Đặc điểm
Voọc bạc có màu đen trên bàn tay, bàn chân và phần trên cơ thể của nó, sau đó chuyển dần sang màu xám nhạt hơn ở phần dưới. Chúng có đuôi dài màu xám và lông trắng trên khuôn mặt tròn. Con non của loài này có bộ lông màu cam sáng.
Chế độ ăn của voọc bạc là lá, chúng ăn cả lá, chồi và quả. Chế độ ăn này cần một thời gian nghỉ ngơi, vào lúc đó chúng có thể trải qua quá trình nhai lại.
Trachypithecus germaini giống như các loài voọc châu Á khác, là những loài linh trưởng phi xã hội. Chúng không ưa thích thực hiện các hành vi xã hội so với việc kiếm ăn và nghỉ ngơi, những hoạt động chiếm phần lớn thời gian trong ngày của chúng. Tuy nhiên, Trachypithecus germaini thường được quan sát thấy sống theo bầy gần gũi về mặt xã hội từ 10 đến 50 cá thể.
Những loài săn loài voọc, bao gồm cả voọc bạc, bao gồm báo hoa mai, hổ, chó săn và rắn lớn. Nhiều loài động vật ăn thịt nhỏ sẽ ăn voọc non.
Các mối đe dọa phổ biến đối với voọc bạc bao gồm săn bắn, buôn bán vật nuôi ngoại lai và mất môi trường sống do mở rộng nông nghiệp.
Voọc bạc an nam/Annamese Langur (Trachypithecus margarita)
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Primate |
Họ (familia) | Cercopithecidae |
Chi (genus) | Trachypithecus |
Loài (species) | T. margarita |

Loài voọc an nam có nguy cơ tuyệt chủng này đã từng xuất hiện rộng rãi ở miền Nam Trung Bộ Việt Nam, Nam Lào và Đông Campuchia bên bờ tây của sông Mekong. Loài này chỉ còn phân bố rải rác ở một số nơi do nạn săn bắt, môi trường sống bị mất, và gần đây ở Việt Nam rất ít khi thấy chúng.
Một số khu vực có thể xem và quan sát

Loài này xuất hiện ở rừng nhiệt đới, bán nhiệt đới, rừng rụng lá hỗn hợp, rừng ven sông, đặc biệt là ở đồng bằng. Rừng trên đồi thì ít khi thấy. Chúng được tìm thấy ở Khu Bảo tồn thiên nhiên Tà Cú, Vườn Quốc gia Cát Tiên, Chư Mom Ray, Kon Ka Kinh và Yok Đôn.
Rừng ven sông là môi trường sống quan trọng cho loài này.

Đặc điểm
Bộ lông của loài có màu sáng hơn so với màu lông của loài Voọc bạc đông dương.
Hiện chưa ước tính được loài này còn bao nhiêu con, nhưng có một điều chắc chắn là số lượng loài này đang giảm. Săn bắt để lấy thịt, làm thuốc và sử dụng như thú cảnh là một trong những nguy cơ đe dọa đến loài này. Tập tính ăn đất nhiều Natri có thể do chúng ăn nhiều lá cây có độc, lượng natri này giúp chúng loại bỏ các chất gây nguy hiểm (Jonathan C. Eames).
Voọc xám/Indochinese Grey Langur (Trachypithecus crepusculus)
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Primate |
Họ (familia) | Cercopithecidae |
Chi (genus) | Rhinopithecus |
Loài (species) | T. crepusculus |

Trước đây loài này được xếp chung và một phân loài với Voọc xám. Nhưng sau này được tách ra, loài này có nguy cơ tuyệt chủng được tìm thấy tại Trung Quốc, Thái Lan, Lào và Việt Nam.
Một số khu vực có thể xem và quan sát

Loài này được ghi nhận tại Khu Bảo tồn loài và sinh cảnh Mù Cang Chải tại Yên Bái và ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
Loài này sinh sống ở rừng nhiệt đới nguyên sinh hay thoái hoá, rừng rụng lá hỗn hợp, và các khu tre mọc, đôi khi gần đồn điền. Rừng trên núi đá vôi cũng có ghi nhận sự xuất hiện. Tại Việt Nam, nó được tìm thấy ở một số khu bảo tồn như Vườn Quốc gia Pù Mát và Bến En, Khu Bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên và Pù Luông.

Đặc điểm
Đây là loài khỉ có thân hình thon nhỏ, trọng lượng 5 – 9 kg. Chúng có đặc điểm nhận dạng là bộ lông màu xám tro tới màu nâu đen, đỉnh đầu có mào lông xám, da bao quanh mắt có màu xanh và trắng. Lông ở vùng lưng thẫm hơn ở vùng bụng. Bên hông có các lông dài, đầu lông có ánh bạc. Đuôi dài hơn thân, lông đuôi rất dài. Chân tay rất dài, chân tay có màu đen, phần trên cánh tay, chân và đuôi có màu xám bạc.
Voọc xám sống trong các khu rừng trên núi đá các tỉnh miền núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Chúng sống thành từng nhóm từ 3 – 30 cá thể. Chúng sống ở những vùng rừng cây cao trên núi đá vôi, không sống trên rừng hỗn giao tre nứa. Chúng hoạt động vào ban ngày. Cuộc sống leo trèo trên cây. Có thể gặp chúng kiếm ăn ở vùng đồi cây bụi gần rừng. Thường ngủ trên các vách núi đá vôi dựng đứng hoặc trên tán cây cao rậm kín gió.
Voọc xám sống chung với khỉ mốc, khỉ vàng nhưng không cạnh tranh về thức ăn. Thức ăn chủ yếu là quả 24,4%, lá 58,4%, các loại khác 9,7%. Kẻ thù tự nhiên là các loài thú ăn thịt cỡ lớn. Voọc xám sinh sản quanh năm. Đã gặp voọc cái có chửa vào tháng 3 và tháng 7. Gặp voọc mẹ mang con trên ngực vào các tháng 4, 6, 10, 12. Mỗi lứa đẻ một con, con non mới đẻ màu vàng nhạt.
Voọc đen má trắng/Francois’s Langur (Trachypithecus francoisi)
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Primate |
Họ (familia) | Cercopithecidae |
Chi (genus) | Trachypithecus |
Loài (species) | T. francoisi |

Là loài voọc phân bố xa nhất về phía Bắc, xuất hiện từ miền Nam Trung bộ Trung Quốc đến miền Bắc Việt Nam. Loài voọc này đang bị đe doạ mới mức độ cực kì nghiêm trọng.
Một số khu vực có thể xem và quan sát

Chúng sống trên các núi đá vôi, loài này dùng các khe nứt và hang động làm chỗ ngủ (Le Khac Quyet).
Loài này sống rải rác ở các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang và Bắc Cạn. Quần thể lớn nhất còn tồn tại là ở Khu Bảo tồn thiên nhiên Du Già, tỉnh Hà Giang.

Đặc điểm
Bộ lông dày, màu đen tuyền. Hai má trắng, đám lông trắng rộng vượt quá chỏm vành tai. Đầu thường có mào lông đen. Đuôi dài hơn thân, màu đen.
Voọc đen má trắng chủ yếu sống ở rừng trên núi đá vôi và kiếm ăn trong các dải rừng kín thường xanh tiếp giáp với rừng núi đá vôi gần vùng sống của chúng. Voọc đen má trắng sống thành đàn. Trước đây, đàn voọc thường rất đông, 20 – 30 con (Lê Hiền Hào, 1973), nhưng hiện nay phổ biến 5 – 15 con (Phạm Nhật, 2000).
Hoạt động kiếm ăn của Voọc đen má trắng diễn ra hai buổi sáng và chiều, trưa nghỉ. Cường độ kiếm ăn của voọc má trắng diễn ra mạnh vào hai thời điểm, đầu buổi sáng đến khoảng 10 giờ và từ 14 giờ đến 16 giờ 30 phút. Thời gian hoạt động trong ngày có khác nhau. Mùa nóng Voọc rời chỗ ngủ sớm, về hang muộn và thời gian nghỉ trưa khá dài. Về mùa lạnh, chúng đi kiếm ăn muộn và về hang ngủ sớm. Voọc đen má trắng ăn lá chồi non và quả cây rừng, không ăn động vật.
Bước đầu đã ghi nhận được 44 loài thuộc 22 họ thực vật được Voọc đen má trắng sử dụng làm thức ăn (Pham Nhật, 2000). Có nhiều loài thực vật được Voọc đen má trắng thích ăn nhất là cây họ Dâu tằm Moraceae, Ba mảnh vỏ Ephorbiaceae, Cau dừa Arecaceae. Các số liệu nghiên cứu cho thấy tuy chúng ăn rất nhiều loại quả nhưng trong khẩu phần thức ăn thì khối lượng lá, đặc biệt là cuống chiếm tỷ lệ nhiều hơn các loại thức ăn quả và thân.
Voọc đen má trắng chủ yếu ngủ hang. Mùa nóng, chúng ngủ trên những tảng đá hoặc cây gỗ trước cửa hang, mùa lạnh ngủ trong hang. Hang ngủ của Voọc thường tìm thấy ở những nơi vách đá dựng đứng.
Dữ liệu sinh sản của Voọc đen má trắng còn thiếu. Quan sát thực địa thường gặp con mẹ mang con non ở các tháng khác nhau của năm, nhưng tập trung từ tháng 3 đến tháng 7. Mỗi lứa đẻ một con, con non mới đẻ có bộ lông màu vàng
Voọc hà tĩnh/Hatinh Langur (Trachypithecus hatinhensis)
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Primate |
Họ (familia) | Cercopithecidae |
Chi (genus) | Rhinopithecus |
Loài (species) | T. hatinhensis |

Loài Voọc hà tĩnh có nguy cơ tuyệt chủng này sinh sống ở một vùng nhỏ tại miền Trung Việt Nam, giới hạn ở Quảng Trị và Quảng Bình. Một số khác có thể tìm thấy tại Khammouane ngay bên cạnh Lào.
Một số khu vực có thể xem và quan sát

Voọc hà tĩnh sống trên các khối lớn nhất trong hệ thống núi đá vôi ở Đông Dương, ở đó chúng thích những ngọn đồi được rừng rậm bao phủ. Chúng được tìm thấy trong hai khu bảo tồn ở Việt Nam: Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng ở tỉnh Quảng Bình và Khu Bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị.

Đặc điểm
Chúng giành phần lớn thời gian ở trên cây. Sống thành từng đàn 7 – 8 con, gồm một con đực cùng với các con cái và con của chúng. Chúng bị đe dọa bởi nạn săn bắt, chủ yếu để làm thuốc. Chúng thường bị người ta bắt trên lối vào hang động của chúng (Le Khac Quyet).
Điều khoản và phản hồi về việc sử dụng hình ảnh trên website này vui lòng xem tại đây
bài viết mới nhất
3 loài Cu li tại Việt Nam – Loài linh trưởng dễ thương và quý hiếm
Th9
26 loài Rùa cạn và rùa nước ngọt tại Việt Nam – Khám phá và bảo tồn
Th9
Hệ sinh thái san hô tuyệt đẹp tại Côn Đảo: Một thiên đường biển đầy sắc màu
Th9
Rùa biển tại Côn Đảo – 4 kỳ quan sinh vật và những nỗ lực bảo tồn
Th9
Động vật đặc hữu tại Côn Đảo – Kho báu sinh thái không thể bỏ qua
Th9
Bò biển (Dugong dugon) – Vẻ đẹp và sự độc đáo tại Côn Đảo
Th9
Thảm cỏ biển – Kỳ quan dưới đáy biển Côn Đảo
Th8
Côn Đảo – Khi 14 hòn đảo hòa quyện thành một thiên đường độc đáo
Th8